Mô hình lớp
Để trao đổi dữ liệu giữa hai thiết bị, các thủ tục, giao thức cần thiết có thể
tương đối phức tạp. Rõ ràng điều cần ở đây là sự cộng tác của hai đối tác truyền
thông trên một mức trừu tượng cao. Thay vì phải thực hiện tất cả các bước cần
thiết trong một module duy nhất, có thể chia nhỏ thành các phần việc có thể thực
hiện độc lập. Trong mô hình lớp, các phần việc được sắp xếp theo chiều dọc thành
từng lớp, tương ứng với các lớp dịch vụ và các lớp giao thức khác nhau. Mỗi lớp
giải quyết một nhiệm vụ rõ ràng phục vụ việc truyền thông. Một dịch vụ ở lớp
trên sử dụng dịch vụ của lớp dưới ngay kề nó.
Để thực hiện một dịch vụ truyền thông, mỗi bức điện được xử lý qua nhiều lớp
trên cơ sở các giao thức qui định, gọi là xử lý giao thức theo mô hình lớp. Mỗi lớp
ở đây có thể thuộc chức năng của phần cứng hoặc phần mềm. Càng ở lớp cao hơn
thì phần mềm càng chiếm vai trò quan trọng, trong khi việc xử lý giao thức ở các
lớp dưới thường được các vi mạch điện tử trực tiếp thực hiện.
Hình 2.37 minh họa nguyên tắc xử lý giao thức theo mô hình lớp. Đứng từ bên
gửi thông tin, qua mỗi lớp từ trên xuống dưới, một số thông tin bổ trợ lại được gắn
thêm vào phần dữ liệu do lớp trên đưa xuống, gọi là đầu giao thức (protocol
header). Bên cạnh đó, thông tin cần truyền đi có thể được chia thành nhiều bức
điện có đánh số thứ tự, hoặc một bức điện có thể tổng hợp nhiều nguồn thông tin
khác nhau. Người ta cũng dùng các khái niệm như “đóng gói dữ liệu” hoặc “tạo
khung” để chỉ các thao tác này.
Một quá trình ngược lại sẽ diễn ra bên nhận thông tin. Các phần header sẽ được
các lớp tương ứng đọc, phân tích và tách ra trước khi gửi tiếp lên lớp trên. Các
bức điện mang một nguồn thông tin sẽ được tổng hợp lại, hoặc một bức điện
mang nhiều nguồn thông tin khác nhau sẽ được phân chia tương ứng. Đến lớp trên
cùng, thông tin nguồn được tái tạo.
Với mô hình phân lớp, ý nghĩa của giao thức một lần nữa thể hiện rõ. Đương
nhiên, để thực hiện truyền thông cần có hai đối tác tham gia, vậy phải tồn tại cùng
một tập hợp các hàm phân lớp cả trong hai thiết bị. Quan hệ giao tiếp ở đây chính
là quan hệ giữa các lớp tương đương của hai trạm. Chỉ khi các đối tác truyền
thông trong các lớp tương đương sử dụng chung một ngôn ngữ, tức chung một
giao thức thì mới có thể trao đổi thông tin. Trong trường hợp khác, cần có một
phần tử trung gian hiểu cả hai giao thức, gọi chung là bộ chuyển đổi, có thể là
bridge hay gateway - tùy theo lớp giao thức đang quan tâm. Vấn đề mấu chốt ở
đây để có thể thực hiện được việc chuyển đổi là sự thống nhất về dịch vụ truyền
thông của các lớp tương đương trong hai hệ thống khác nhau. Nếu hai hệ thống lại
qui định các chuẩn khác nhau về dịch vụ thì việc chuyển đổi rất bị hạn chế và
nhiều khi hoàn toàn không có ý nghĩa. Ví dụ, một bên đòi hỏi cài đặt các dịch vụ cao cấp như cài đặt và kiểm soát chạy chương trình từ xa, trong khi bên đối tác chỉ
cung cấp dịch vụ trao đổi dữ liệu thuần túy thì việc chuyển đổi ở đây không có vai
trò gì cũng như không thể thực hiện được. Tuy nhiên, càng những dịch vụ ở cấp
thấp càng dễ có cơ hội đưa ra một chuẩn thống nhất cho cả hai phía.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)