Truyền đông bộ và không đông bộ
Sự phân biệt giữa chế độ truyền đồng bộ và
không đồng bộ chỉ liên quan tới phương thức truyền bit nối tiếp. Vấn đề đặt ra
ở đây là việc đồng bộ hóa giữa bên gửi và bên nhận dữ liệu, tức là vấn đề làm
thế nào để bên nhận biết khi nào một tín hiệu trên đường truyền mang dữ liệu
gửi và khi nào không.
Trong chế độ
truyền đồng bộ, các đối tác truyền thông làm việc theo cùng một nhịp, tức với
cùng tần số và độ lệch pha cố định. Có thể qui định một trạm có vai trò tạo
nhịp và dùng một đường dây riêng mang nhịp đồng bộ cho các trạm khác. Biện pháp
kinh tế hơn là dùng một phương pháp mã hóa bit thích hợp để bên nhận có thể tái
tạo nhịp đồng bộ từ chính tín hiệu mang dữ liệu. Nếu phương pháp mã hóa bit không
cho phép như vậy, thì có thể dùng kỹ thuật đóng gói dữ liệu và bổ sung một dãy bit
mang thông tin đồng bộ hóa vào phần đầu mỗi gói dữ liệu. Lưu ý rằng, bên gửi và
bên nhận chỉ cần hoạt động đồng bộ trong khi trao đổi dữ liệu.
Với chế độ
truyền không đồng bộ, bên gửi và bên nhận không làm việc theo một nhịp chung.
Dữ liệu trao đổi thường được chia thành từng nhóm 7 hoặc 8 bit, gọi là ký tự.
Các ký tự được chuyển đi vào những thời điểm không đồng đều, vì vậy cần thêm hai
bit để đánh dấu khởi đầu và kết thúc cho mỗi ký tự. Việc đồng bộ hóa được thực
hiện với từng ký tự. Ví dụ, các mạch UART (Universal Asynchronous Receiver/Transmiter) thông dụng
dùng bức điện 11 bit, bao gồm 8 bit ký tự, 2 bit khởi đầu cũng như kết thúc và
1 bit kiểm tra lỗi chẵn lẻ.