Cấu trúc giao diện mạng
Một giao diện mạng bao gồm các thành phần xử lý giao thức truyền thông (phần
cứng và phần mềm) và các thành phần thích ứng cho thiết bị được nối mạng. Hình 3.9
mô tả phạm vi thực hiện chức năng có thể thực hiện được do các thành phần giao diện
mạng đối chiếu với mô hình OSI.
Lưu ý rằng, nhiều khi ta không thể định nghĩa ranh giới rõ ràng giữa phần cứng và
phần mềm. Phạm vi chức năng của các thành phần này có thể giao nhau. Phần cứng
thực hiện chức năng của lớp vật lý và có thể một phần hoặc toàn bộ chức năng của các
lớp liên kết dữ liệu và lớp mạng. Phạm vi chức năng của phần mềm là xử lý giao thức,
có thể từ lớp liên kết dữ liệu cho tới lớp ứng dụng. Tuy nhiên, vì các lý do về tính năng
thời gian trong vấn đề tạo xung nhịp, đồng bộ nhịp, trích mẫu tín hiệu và mã hóa bít, lớp
vật lý bắt buộc phải do các vi mạch cứng đảm nhiệm. Phần mềm có thể thực hiện dưới
dạng phần dẻo (firmware) đổ cứng trong vi xử lý, phần mềm giao thức tích hợp trong hệ
điều hành (hiểu với nghĩa rộng) hoặc dưới dạng các hàm thư viện được gọi trong
chương trình ứng dụng.
Hình 3.10 mô tả một cấu trúc tiêu biểu phần cứng ghép nối bus trường cho các thiết
bị, sử dụng chủ yếu các vi mạch tích hợp cao. Phần cứng này có thể thực hiện dưới dạng
một bảng mạch riêng để có thể ghép bổ sung, hoặc tích hợp sẵn trong bảng mạch của
thiết bị.
Chức năng xử lý giao thức truyền thông có thể được thực hiện bằng một bộ vi xử lý
thông dụng kết hợp với vi mạch thu phát không đồng bộ đa năng UART (Universal
Asynchronous Receiver/Transmitter). Vi mạch UART thực hiện việc chuyển đổi các dữ liệu song song từ vi xử lý sang một dãy bit nối tiếp. Phần mềm xử lý giao thức được lưu
trữ trong bộ nhớ EPROM/EEPROM hoặc Flash-ROM. Phương pháp này có nhược
điểm là tính năng thời gian xử lý truyền thông rất khó xác định và kiểm nghiệm một
cách chính xác. Bên cạnh đó chi phí cho thiết kế, phát triển, thử nghiệm và chứng nhận
hợp chuẩn phần mềm xử lý giao thức cho một loại vi xử lý cụ thể có thể rất lớn.
Để khắc phục các vấn đề trên đây, nhiều công ty cho sản xuất hàng loạt các vi mạch
chuyên dụng cho một loại bus, được gọi là ASIC (Application Specific Integrated
Circuit), đa dạng về chất lượng, hiệu năng và giá thành. Một số ASIC thậm chí còn
được tích hợp sẵn một số phần mềm ứng dụng như các thuật toán điều khiển, chức năng
tiền xử lý tín hiệu và chức năng tự chẩn đoán. Nhờ đó, việc phân tán các chức năng tự
động hóa xuống các thiết bị trường được nối mạng không những giảm tải cho máy tính
điều khiển cấp trên, mà còn cải thiện tính năng thời gian thực của hệ thống.
Tuy nhiên, thông thường các bảng mạch vi điện tử “cứng” không đảm nhiệm toàn bộ
chức năng xử lý giao thức truyền thông, mà chỉ thực hiện dịch vụ thuộc các lớp dưới
trong mô hình OSI, còn các phần trên thuộc trách nhiệm của phần mềm thư viện hoặc
phần mềm ứng dụng. Trong một số hệ thống bus hoặc trong một số sản phẩm, nhà sản
xuất tạo điều kiện cho người sử dụng tự lựa chọn một trong nhiều khả năng.
Hầu hết các mạch giao diện bus đều thực hiện cách ly với đường truyền để tránh gây
ảnh hưởng lẫn nhau. Ngoài ra, cần một bộ cung cấp nguồn nuôi trong trường hợp đường
truyền tín hiệu không đồng tải nguồn. Đa số các thành phần ghép nối cũng cho phép
thay đổi chế độ làm việc hoặc tham số qua các công tắc, jumper và hiển thị trạng thái
qua các đèn LED.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)