Câu
38: Hãy phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước?
Trả lời:
Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương
do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đó là điểm
khác nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai
cấp bóc lột đã từng tồi tại trong lịch sử.
- Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và ngay từ đầu là: “Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo” (Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946).
+ Quyền quyết định của nhân dân về các vấ đề liên quan đến vận mệnh quốc
gia.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”
(Điều thứ 32 - Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một
hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân
dân
+ Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì
pháp luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ
để thực thi quyền làm chủ của người dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân,
chỉ là “công bộc của dân”. Hồ
Chí Minh phê hán những “vị đại diện”
lầm lẫn sự uy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy
thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy,
coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc
cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”
- Nhà nước do dân.
+ Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình.
+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu,
hoạt động.
+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu:
Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
- Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ
chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, không có đặc quyền lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí
Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh...” + Cán bộ Nhà nước phải là
đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải
trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt,
nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người
thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
2. Sự thống nhất giữa bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của
hệ thống chính trị, luôn mang bản chất giai cấp.
+ Trả lời câu hỏi: Nhà nước của dân, do dân, vì dân có phải nhà
nước siêu giai cấp không?, Hồ Chí Minh trả lời: “Tính chất nhà nước là vấn
đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền.
Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ
nội dung của Hiến pháp... Nhà nước của ta là Nhà nước của nhân dân dựa trên nền
tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”
+ Bản chật giai cấp của Nhàa nước ta là bản chất giai cấp công nhân và
được biểu hiện ở những nội dung:
* Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
* Định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát
triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền
kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến” Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước là
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh viết: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ... Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo
nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội” -
Sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính
dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác
ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai
cấp công nhân một cách triệt để.
+ Sự thống nhất này được thể hiện:
* Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương
máu của bao thế hệ cách mạng: là hoa, là quả của bao nhêu máu đã đổ và
bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những con người con anh dũng của Việt Nam
trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém,
trên chiến trường.
* Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm
nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết
dân tộc.
* Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách
mạng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà
nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
- Một nhà nước có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến.
+ Tuyên ngôn độc lập do
Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc trong cuộc mít tinh lớn tại thủ đô Hà Nội ngày
2-9-1945 đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam mới, đồng thời đảm bảo địa vị hợp
pháp của Chính phủ lâm thời.
+ Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách là “Cúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính
phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu” để sớm có m65t nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
+ Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh là Chủ
tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại
biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết
mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt Nam mới.
- Một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước
bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
+ Nhà nước dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi
với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Pháp
luật là bà đỡ của dân chủ. Hồ Chí Minh viết: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”
+ Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế
bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó
trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Theo Người, công bố luật chưa
phải là mọi việc đã xong, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được
tốt.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm
chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân
dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình
thức.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ
của mình, dám nói, dám làm”. “Lúc
dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân,
tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương
trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ,
đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ
pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. Người
viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn
phải nêu cao cái gương “Phụng công,
thủ pháp chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”
- Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền
mạnh mẽ có hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật,
thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà nước phải biết quản lý nhà nước.
Người ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa
pháp lý học tại Trường đại học Việt Nam .
+ Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được đào tạo
nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính....
+ Hồ Chí Minh đăng báo “Tìm
người tài đức”, Người viết: công
việc kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết
giáo dục..., rất cần nhân tài. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm
nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng
ngày càng phát triển thêm nhiều. Hồ Chí Minh quan tâm tới công bằng và
dân chủ trong tuyển dụng cán bộ.
+ Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh
nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái.
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76, ban hành Quy chế công chức – chú trọng chế
độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính - thể hiện tầm nhìn xa,
tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân chủ... của Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
+ Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với cán bộ quản lý nhà nước, điều quan
tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều này thì dù giỏi mấy cũng
không dùng được.
Phát biểu trước cử tri Hà Nội (ngày 5-01-1946), Hồ Chí Minh nói: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn
đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì
nhất định không nên bầu”. Sau khi trúng cử Quốc hội, Hồ Chí Minh hứa với
đồng bào: Trước sự nguy hiểm khó khăn của nước nhà, chúng tôi đi trước. Với
việc giữ vững nền độc lập, chúng tôi xin đi trước.
+ Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho
chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân, gần dân, trọng dân, không được
lên mặt “quan cách mạng” với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát
của dân”.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
+ Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu
nông đi tới xây dựng nhà nước pháp quyền, trước hết phải nhấn mạnh vai trò của
pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân..., đồng thời phải đặc biệt coi trọng
vấn đề giáo dục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ
sung cho nhau trong thực tế trị nước. Không bao giờ được tuyệt đối hóa địa vị
độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
+ Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự
kết hợp đạo đức và pháp luật, luô luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng
không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật
nghiêm minh.
* Chính trị Hồ Chí Minh là một nền
chính trị đạo đức; và đạo đức cao nhất, theo Hồ Chí Minh là “Hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc”
* Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh kịp thời ban hành pháp luật.
Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh ấn định hình
phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trậm
cắp của công vào tội tử hình.
+ Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí
Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Hồ Chí
Minh viết: Từ ngày thành lập Chính phủ trong nhân viên còn có nhiều khuyết
điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân, phì gia....
Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người đòi hỏi pháp
luật của ta “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở
địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”
- Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí,
quan liêu.
+ Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả
của Nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự
gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Người đòi hỏi “cán bộ
phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”
+ Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”.
Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch
và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần,
kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Vệt gian, mật thám”
+ Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên trên mặt trận. “Nếu
chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm,
như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”
+ Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên
nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là bệnh quan liêu.
Người viết: “Vì những người và những
cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không
theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì
thật trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ
biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi,
đến chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có
chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu
đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn
tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”