Câu 44: Phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế và quản lý kinh tế vào sự nghiệp đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay
được đặt ra như thế nào?
Trả lời:
Nghiên cứu tư tưởng kinh tế của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, cho thấy ở Người những tư duy lý luận nổi bật, vượt khỏi nhận
thức của các nhà lý luận đương thời, đối với những vấn đề lớn, có quan hệ đến
việc xác định đường lối kinh tế của nước ta. Những vấn đề này được Người nêu ra
sớm hơn, khác hơn và phù hợp thực tế hơn với những quan điểm lý luận mà mọi
người lúc đó hiểu và viết.
Chúng tôi xin mạnh dạn trình bày những vấn đề mà chúng
tôi cho là tư duy nổi bật và những nguyên nhân dẫn đến nhận thức đó của Người.
Tư tưởng
thực hiện mở cửa nền kinh tế
Theo chúng tôi, đây thực sự là tư duy
kinh tế vượt thời đại của Hồ Chí Minh, được hình thành ở Người từ rất sớm. Ngay
từ năm 1919, trong một bài báo đăng trên báo L'Humanite', Người đã viết;
"Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa
quốc tế, và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng
cường" (1.9-10). Tư tưởng này về sau được Người cụ thể hóa trong bức thư
Người gửi cho Liên hợp quốc với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa sau khi đất nước mới giành được độc lập: ..."Đối với các nước dân chủ,
nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh
vực. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho sự đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước Việt
Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán
và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam
chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên hợp quốc. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân...".
(4.470)
Vào đầu thế kỷ XX mà đã có tư duy mở
cửa nền kinh tế như trên, lại đã thấy vai trò to lớn của Liên hợp quốc trong
việc bảo đảm an ninh cho việc mở cửa nền kinh tế của một quốc gia - một tư duy
hiện đại cả với ngày nay - thì rõ ràng đó là tư duy của một thiên tài, có tầm
nhìn xa thấy rộng!
Trên cơ sở của tư duy đó, với cương vị
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã có những việc làm, theo
chúng tôi là rất nhạy bén và sáng tạo, trong việc mở rộng quan hệ của nước Việt
Nam độc lập với những nước lớn, có ảnh hưởng đến tình hình chính trị thế giới
và cả Việt Nam lúc đó. Có thể nêu một số thí dụ sau đây:
Ngày 1-11-1945 (chỉ hai tháng sau ngày
đọc Tuyên ngôn độc lập ) Người đã gửi thư cho
Bộ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, đề nghị gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên
Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân
thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ
thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác. Trong bức thư đó
Người còn nói rõ thêm quan điểm của thanh niên trí thức Việt Nam (và cố nhiên
đó cũng là quan điểm của Người): "Trong suốt nhiều năm nay họ quan tâm sâu
sắc đến các vấn đề của nước Mỹ và tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với
nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao
thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của
họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam" (4.80-81).
Tầm nhìn đó của Người về mở rộng quan hệ của Việt Nam với Mỹ là rất sớm, rất
cởi mở!
Ngay sau khi giành được độc lập trong
nước còn bộn bề công việc: ở miền bắc, bọn quân Tưởng vào quấy phá với âm mưu
"diệt cộng, cầm Hồ", bọn phản động Việt quốc, Việt cách tìm mọi cách
chống phá cách mạng; ở miền nam, bọn thực dân Anh vào giải giáp quân Nhật cũng
với âm mưu tương tự. Vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quyết định sang Pháp và ở
đó bốn tháng với mục tiêu dùng uy tín và tài ngoại giao của mình, vận động các
lực lượng yêu hòa bình của nước Pháp vừa nhằm ngăn chặn một cuộc chiến tranh có
nguy cơ xảy ra, vừa xây dựng một quan hệ tốt đẹp với nước Pháp, với châu Âu.
Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ quan điểm của
mình về quan hệ Việt- Pháp. Người nói : "Việt Nam đòi quyền độc lập. Độc lập
không phải là đoạn tuyệt với Pháp... Về mặt kinh tế và văn hóa, Việt Nam vui lòng
cộng tác với Pháp... Việt Nam cần nước Pháp, nước Pháp cũng cần Việt Nam "
(4.368-369).
Tiếc rằng, do tình hình phức tạp của
thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đường lối mở cửa nền kinh tế mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh ý thức từ rất sớm đã không được thực hiện đầy đủ.
Nhận thức vai trò quan trọng của nông nghiệp
Chỉ vài tháng sau khi giành được độc
lập trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam
ngày 11-4-1946, Người đã viết: "Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước
nhà, chính phủ trông mong vào lòng dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn
Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh"
(4.215). Khi bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất kế hoạch xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nhắc: "Muốn
phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc sản xuất
nông nghiệp làm gốc, làm chính" (10.180). Đặc biệt là, trong bài phát biểu
khai mạc Hội nghị BCH TW lần thứ 7 (Khóa III), hội nghị chuyên đề bàn về phát
triển công nghiệp, Người vẫn nói: "Phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ
quan trọng" (10.543-544). Không phải ngẫu nhiễn mà khi bàn về xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nhất là trong một hội nghị chuyên đề bàn về
phát triển công nghiệp, về công nghiệp hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhắc
đến vai trò quan trọng của nông nghiệp!
Sau này, trong nhiều lần khác, Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn nói đến vai trò quan trọng của nông nghiệp, coi nông
nghiệp cùng với công nghiệp như hai chân của nền kinh tế. "Công nghiệp và
nông nghiệp như hai chân của một con người, Hai chân có mạnh thì đi mới vững
chắc. Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp không phát triển
được..." (10.619).
Nhưng đoạn trích sau đây được Người
nói trong hội nghị cán bộ Trung ương về cải tiến quản lý hợp tác xã năm 1963,
chúng tôi mới cho là dẫn chứng mang tính khái quát tư tưởng coi trọng nông
nghiệp của Người: "Có gì sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào công
cuộc phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế XHCN"
(11.612). Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi ai cũng nói công nghiệp; nhất
là công nghiệp nặng là nền tảng của nền kinh tế thì việc Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết "Phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế
XHCN" rõ ràng thể hiện một tư duy sáng tạo nổi bật.
Trên quan điểm đó, lúc sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên theo sát chỉ đạo mọi ngành, mọi cấp, mọi người
thực hiện nhiều biện pháp ra sức phát triển nông nghiệp. Người nhắc nhở:
"Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các
mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc,
văn hóa, giáo dục, y tế, v.v... Các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm
trung tâm" (chúng tôi nhấn mạnh. Tg) (11.396).
Nếu chúng ta nhìn lại, vào đầu những
năm 60 của thế kỷ XX, khi mọi người luôn nhấn mạnh vai trò của công nghiệp, cho
rằng công nghiệp nặng có vai trò nền tảng của nền kinh tế thì mới thấy quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp là rất táo bạo, rất
sáng tạo. Sự chỉ đạo tập trung phát triển nông nghiệp của Người là hoàn toàn
chính xác. Nhận thức đó thể hiện phẩm chất một nhà lãnh đạo hiểu sâu sắc thực
tiễn của đất nước mình, nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, không câu nệ
như những lý thuyết gia thông thường. Tiếc rằng chúng ta chưa thực hiện đầy đủ
những lời chỉ bảo quý báu đó của Người.
Nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nặng
Khi nói về đường lối phát triển kinh
tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của công nghiệp hóa. Người đã
từng nói: "Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính... Nhưng
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường
no ấm thật sự của nhân dân ta" (10. 41).
Khi nói về đường lối công nghiệp hóa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại rất coi trọng công nghiệp nặng. Trong bài báo
"Thế nào là công nghiệp hóa", đăng trên báo Nhân Dân ngày 22-1-1960, với bút danh C.K, Người đã viết: "Công nghiệp nặng
là đầu mối để mở mang các ngành công nghiệp khác và cung cấp máy móc cho nông
nghiệp. Cho nên chưa có công nghiệp nặng thì chưa thể có một nền kinh tế tự chủ
và giàu mạnh được". Trong bài nói tại Hội nghị của Bộ Công nghiệp nặng
ngày 31-12-1964, Người còn nói rõ thêm vai trò của công nghiệp nặng:
"Nhiệm vụ của công nghiệp nặng rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Để nâng cao
không ngừng đời sống của nhân dân, để xây dựng thắng lợi CNXH, chúng ta phải
quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng" (11.352). Người coi trọng công
nghiệp nặng đến mức Người đặt cụm từ công nghiệp nặng bên cạnh cụm từ công
nghiệp hóa như đồng nghĩa: "Muốn bảo đảm đời sống sung sướng mãi mãi, phải
công nghiệp hóa XHCN, phải xây dựng công nghiệp nặng" (10.159). Người còn
cho rằng: "Công nghiệp nặng làm cơ sở cho nền kinh tế độc lập"
(11.459).
Nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nặng
đến mức gắn liền vai trò của công nghiệp nặng với việc xây dựng nền kinh tế tự
chủ và giàu mạnh, coi công nghiệp nặng làm cơ sở cho nền kinh tế độc lập, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thực sự chỉ dẫn cho chúng ta phải quán triệt quan điểm của
chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề này.
Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân
Khi trả lời phỏng vấn của một phóng
viên hãng Thông tấn xã Pháp (ông Becna Uynman) vào cuối năm 1954, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: "Ở thời đại chúng ta, tôi nghĩ rằng bất cứ nền kinh tế
nào ít hay nhiều cũng phải kế hoạch hóa" (7.379-380).
Chúng ta biết rằng vào những năm 50,
những năm 60 và cả những năm 70 của thế kỷ XX, ở Việt Nam và các nước XHCN đều
quan niệm rằng nền kinh tế kế hoạch hóa là đặc trưng riêng có của CNXH. Lúc đó
ai cũng cho rằng nền kinh tế TBCN dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
tất yếu phát triển tự phát vô chính phủ. Lúc đó trong nhiều sách giáo khoa kinh
tế chính trị còn nói đến một mâu thuẫn trong nền sản xuất TBCN, đó là mâu thuẫn
giữa tính có kế hoạch trong từng xí nghiệp và tính vô chính phủ trong toàn xã
hội. Vì thế, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Bất cứ nền kinh tế nào
ít hay nhiều cũng phải kế hoạch hóa" vào thời điểm cuối 1954 thực sự thể
hiện tư duy lý luận sâu sắc, vượt thời đại! Nó chứng tỏ rằng Người có một nhãn
quan khoa học, độc lập, không bị tác động bởi tư duy giáo điều đang chi phối
quan điểm và nhận thức của đại đa số các nhà khoa học và quản lý khi đó.