Câu
hỏi 16. Tại sao nói siêu hình và biện chứng là hai mặt đối lập của phương pháp
tư duy? Đáp. Câu trả lời gồm hai ý lớn
1) Thuật ngữ “Siêu hình” có gốc từ tiếng Hy Lạp metaphysica, với nghĩa là
“những gì sau vật lý học”. Vào thế kỷ XVI-XVII, phương pháp siêu hình giữ vai trò
quan trọng trong việc tích luỹ tri thức, đem lại cho con người nhiều tri thức
mới, nhất là về toán học và cơ học; nhưng chỉ từ khi Bêcơn (1561-1626) và về
sau là Lốccơ (1632-1704) chuyển phương pháp nhận thức siêu hình từ khoa học tự
nhiên sang triết học, thì siêu hình trở thành phương pháp chủ yếu của nhận
thức. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình không có khả năng khái quát sự
vận động, phát triển của thế giới vào những quy luật chung nhất; không tạo khả
năng nhận thức thế giới trong chỉnh thể thống nhất nên bị phương pháp biện
chứng duy tâm triết học cổ điển Đức phủ định. Hêghen (1770-1831) là nhà triết
học phê phán phép siêu hình kịch liệt nhất thời bấy giờ và là người đầu tiên
khái quát hệ thống quy luật của phép biện chứng duy tâm, đem nó đối lập với
phép siêu hình.
Trong triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, siêu hình được hiểu theo
nghĩa là phương pháp xem xét sự tồn tại của sự vật, hiện tượng và sự phản ánh
chúng vào tư duy con người trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng khác và không biến đổi. Đặc thù của siêu hình là tính
một chiều, tuyệt đối hoá mặt này hay mặt kia; phủ nhận các khâu trung gian,
chuyển hoá; do đó kết quả nghiên cứu chỉ đi tới kết luận “hoặc là ..., hoặc là
...”, phiến diện; coi thế giới thống nhất là bức tranh không vận động, phát
triển. Các nhà siêu hình chỉ dựa vào những phản đề tuyệt đối không thể dung hoà
để khẳng định có là có, không là không; hoặc tồn tại hoặc không tồn tại; sự
vật, hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó; cái khẳng
định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau.
2) Thuật ngữ “Biện chứng”có gốc từ tiếng Hy Lạp dialektica (với nghĩa là nghệ
thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh
luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của
đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của mình. Đến Hêghen, thuật ngữ
biện chứng được phát triển khá toàn diện và đã khái quát được một số phạm trù,
quy luật cơ bản; nhưng chúng chưa phải là những quy luật chung nhất về tự
nhiên, xã hội và tư duy, mà mới chỉ là một số quy luật riêng trong lĩnh vực
tinh thần. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã kế thừa, phát triển trên tinh thần
phê phán và sáng tạo những giá trị trong lịch sử tư tưởng biện chứng nhân loại
làm cho phép biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật; thành khoa học
nghiên cứu những quy luật chung nhất về mối liên hệ và sự vận động, phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phương pháp biện chứng duy vật mềm dẻo, linh hoạt; thừa nhận trong những trường
hợp cần thiết, bên cạnh cái “hoặc là ... hoặc là...”, còn có cả cái “vừa là ...
vừa là...”. Do vậy, đó là phương pháp khoa học, vừa khắc phục được những hạn
chế của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi phương pháp siêu hình vừa cải tạo phép
biện chứng duy tâm để trở thành phương pháp luận chung nhất của nhận thức và
thực tiễn.